Ngọc trúc còn có tên là nữ ủy, là thân rễ phơi hay sấy khô. Có tác dụng tư âm nhuận phế, sinh tân dưỡng vị, trừ phiền chỉ khát. Trị các chứng phế âm hư, vị âm hư, có ho khan do phế táo, sốt, khát, đái dắt, trợ tiêu hoá.
- Đu đủ loại cây cho nhiều vị thuốc quý trong dân gian
- Giúp hỗ trợ và điều trị bệnh viêm gan từ vị thuốc dành dành
- Chữa bệnh viêm mũi dị ứng từ bài thuốc ké đầu ngựa
Ngọc trúc là tên gọi dược liệu của thân, rễ phơi khô của cây cùng tên
TÁC DỤNG VÀ CHỦ TRỊ CỦA VỊ THUỐC NGỌC TRÚC
Theo nghiên cứu y học hiện đại
Hiện tại, chưa có nghiên cứu cụ thể về tác dụng dược lý của Ngọc trúc. Tuy nhiên, căn cứ vào thành phần, chất convallarin có trong nguyên liệu có khả năng tẩy mạnh và kích thích thận. Ban đầu, convallarin có thể gây hạ huyết áp, nhưng sau đó, tim đập chậm, co quắp, ngừng tim ở thể tâm giãn và ngừng hô hấp.
Theo y học cổ truyền
Một số nghiên cứu y học cổ truyền cho biết, ngọc thuốc có tác dụng:
- Tư ấm;
- Nhuận táo;
- Sinh tân khởi phát.
Chủ trị:
- Táo nhiệt;
- Chỉ khát (khát nước);
- Phong thấp;
- Mồ hôi trộm;
- Sinh ho phát sốt.
Một số bài thuốc có ngọc trúc giúp điều trị bệnh hiệu quả
BÀI THUỐC TRỊ BỆNH CÓ NGỌC TRÚC
Theo các Giảng viên Y học cổ truyền Sài Gòn cho biết, ngọc trúc vị ngọt, tính hơi hàn; vào phế, vị. Có tác dụng tư âm nhuận phế, sinh tân dưỡng vị, trừ phiền chỉ khát. Dưới đây là những bài thuốc có Ngọc trúc như sau:
Tư âm nhuận phế
Trị các chứng âm hư nội nhiệt, hoặc bệnh nhiệt phạm đến phần âm, sốt ho khan, miệng khô, đau họng.
Bài 1: ngọc trúc 12g, hành sống 3 cây, cát cánh 6g, bạch vị 4g, đậu xị 16g, bạc hà 6g, chích thảo 3g, hồng táo 2 quả. Sắc uống. Trị âm hư, cảm mạo.
Bài 2: Thang ngọc trúc mạch môn đông: ngọc trúc 16g, sa sâm 12g, mạch môn đông 12g, cam thảo 8g. Sắc uống. Trị chứng phổi và dạ dày khô nóng phạm đến phần âm, họng khô, miệng khát.
Sinh tân dưỡng vị
Trị chứng phế vị táo nhiệt (phổi và dạ dày khô nóng), tân dịch khô, miệng khát, dạ dày rất nóng, ăn nhiều chóng đói. Dùng Thang ích vị: sa sâm 16g, sinh địa 20g, ngọc trúc 12g, mạch đông 12g. Sắc uống. Trị sốt cao cuối kỳ còn sốt lai rai, họng khô, miệng khát.
Nhuận phế chỉ khái
Trị chứng phổi khô nóng sinh ho, họng khô, đờm đặc không khạc ra được.